Chuyển đổi số đặt ra bức thiết ở nghề cá Quảng Nam. Lợi ích lớn của việc này chưa được tận dụng do nhiều hạn chế.
Quảng Nam cần đẩy nhanh ứng dụng số h&o
acute;a nghề c&a
acute; để đạt mục tiêu ph&a
acute;t triển bền vững. Ảnh: VIỆT NGUYỄN
Nhận diện khoảng trống
Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) đã ban hành nhiều công văn yêu cầu c&a
acute;c tỉnh, thành c&o
acute; nghề c&a
acute; đẩy nhanh chuyển đổi số, sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Tuy vậy, vào c&a
acute;c ngày trong tuần, tại Chi cục Thủy sản Quảng Nam, việc tiếp nh
ận và giải quyết c&a
acute;c thủ tục hành ch&i
acute;nh như hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu c&a
acute;, giấy chứng nhận đăng k&y
acute; tàu c&a
acute;, giấy ph&e
acute;p khai th&a
acute;c thủy sản, giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm tàu c&a
acute;... vẫn còn thực hiện bằng hình thức trực tiếp.
Ưu thế của chuyển đổi số, dịch vụ công trực tuyến là tiết kiệm thời gian, chi ph&i
acute;, là bước đi thiết y?
??u nhằm kết nối, chia sẻ, khai th&a
acute;c cơ sở dữ liệu quốc gia về nghề c&a
acute;.
Dẫu vậy, chuyển đổi số nghề c&a
acute; không phải là chuyện dễ dàng, khi ngư dân quanh năm b&a
acute;m biển, &i
acute;t được tiếp cận kiến thức tin học, thông tin về chuyển đổi số. Không nắm bắt, chưa hiểu hết nên ngư dân còn “nghi ngờ” lựa chọn sử dụng dịch vụ trực tuyến.
Ngay cả trong công t&a
acute;c quản l&y
acute;, việc cập nhật dữ liệu tàu c&a
acute; vào cơ sở dữ liệu nghề c&a
acute; quốc gia (VNfishbase) ở Quảng Nam cũng gặp kh&o
acute; khăn do công t&a
acute;c thống kê của địa phương chưa kịp thời.
Điều này ảnh hưởng đến qu&a
acute; trình b&a
acute;o c&a
acute;o, truy xuất nguồn gốc hải sản sau khai th&a
acute;c. Bởi vậy, thống nhất dữ liệu tàu c&a
acute; từ trung ương đến địa phương để tiến tới công nghệ số h&o
acute;a và khắc phục “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu còn vướng.
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay, chuyển đổi số sẽ gi&u
acute;p ngư dân nhanh ch&o
acute;ng tiếp cận, nắm bắt thời cơ để đẩy mạnh ph&a
acute;t triển. Đ&o
acute; cũng là cơ hội để nghề c&a
acute; Quảng Nam khẳng định vị thế trong phạm vi cả nước và quốc tế. Vấn đề đặt ra là ngư dân cần được hướng dẫn lập, sử dụng tài khoản định danh điện tử để không phải kê khai nhiều loại giấy tờ khi thực hiện giao dịch hành ch&i
acute;nh về nghề c&a
acute;.
Ngư dân cần được tuyên truyền để hiểu rõ lợi &i
acute;ch thiết thực mà dịch vụ công trực tuyến mang lại để dần thay đổi th&o
acute;i quen lâu nay và c&o
acute; được nhận thức đ&u
acute;ng đắn về tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với nghề c&a
acute;.
Với vai trò quản l&y
acute; nhà nước, Chi cục Thủy sản Quảng Nam cần tập huấn
, giúp ngư dân tiếp cận kiến thức về c&a
acute;c nền tảng số, nâng cao kỹ năng số, sử dụng dịch vụ số và công nghệ số trên môi trường online khi thực hiện thủ tục hành ch&i
acute;nh liên quan đến hoạt động khai th&a
acute;c hải sản.
Số h&o
acute;a để truy xuất nguồn gốc
Phục vụ xuất khẩu hải sản sau chế biến, ngành thủy sản phải cấp giấy x&a
acute;c nhận nguyên liệu hải sản khai th&a
acute;c (SC) và giấy chứng nhận nguồn gốc hải sản sau khai th&a
acute;c (CC) cho doanh nghiệp chế biến hải sản.
Việc này gặp nhiều vướng mắc ở Quảng Nam. Theo quy định, thuyền trưởng hay chủ c&a
acute;c tàu c&a
acute; c&o
acute; chiều dài từ 12m trở lên phải c&o
acute; nhật k&y
acute; khai th&a
acute;c chuyến biển. Cụ thể, phải ghi, in và b&a
acute;o c&a
acute;o đ&u
acute;ng quy định về thời điểm thả/thu lưới (ngày, giờ, th&a
acute;ng), vị tr&i
acute; thả/thu lưới (kinh độ, vĩ độ), sản lượng c&a
acute;c loài hải sản chủ yếu (như bao nhiều tấn c&a
acute; nục, c&a
acute; ngừ…), tổng sản lượng và c&a
acute;c thông tin liên quan đến tàu. Tuy nhiên, c&a
acute;c chủ tàu c&a
acute; viết sơ sài hoặc vào đến cảng mới viết để đối ph&o
acute;, dẫn đến kh&o
acute; truy xuất nguồn gốc hải sản sau khai th&a
acute;c, kh&o
acute; được cấp SC và CC.
Việc x&a
acute;c nhận SC, chứng nhận CC bằng phương ph&a
acute;p thủ công như hiện nay là thiếu ch&i
acute;nh x&a
acute;c và qu&a
acute; bất cập trong bối cảnh hội nhập và gỡ “thẻ vàng” thủy sản của Ủy ban châu Âu. Do đ&o
acute;, cần ứng dụng công nghệ số ngay ở khâu ghi nhật k&y
acute; khai th&a
acute;c hải sản của ngư dân.
Đồng thời t&i
acute;ch hợp hệ thống phần mềm quản l&y
acute; của cảng c&a
acute; với truy xuất nguồn gốc hải sản. Điều này không chỉ
đảm bảo thông tin ch&i
acute;nh x&a
acute;c trong suốt hành trình tàu c&a
acute; hoạt động trên biển mà khi tàu về đến cảng c&a
acute;, ngành chức năng x&a
acute;c định được sản lượng lên bến với sản lượng đ&a
acute;nh bắt. Từ đ&o
acute; đảm bảo việc x&a
acute;c nhận SC, chứng nhận CC nhanh gọn, ch&i
acute;nh x&a
acute;c và minh bạch.
Từ những điểm nghẽn n&o
acute;i trên, Chủ tịch UBND tỉnh Lê Tr&i
acute; Thanh đề xuất Bộ NN&PTNT sớm ứng dụng hệ thống nhật k&y
acute; điện tử trên tàu khai th&a
acute;c hai sản thay cho ghi nhật k&y
acute; thủ công. Cùng với đ&o
acute;, đề xuất trung ương xây dựng phần mềm quản l&y
acute; dữ liệu chung cho việc x&a
acute;c nhận SC, chứng nhận CC nhằm tạo thuận lợi trong kiểm tra, thống nhất hồ sơ kiểm so&a
acute;t tàu ra vào cảng c&a
acute; chỉ định.
Hiện nay, Văn phòng Kiểm so&a
acute;t nghề c&a
acute; tỉnh thực hiện nghiêm việc thu nhận nhật k&y
acute; khai th&a
acute;c, nhật k&y
acute; thu mua, quy trình tàu c&a
acute; cập cảng, rời cảng cũng như x&a
acute;c nhận sổ danh bạ thuyền viên tàu c&a
acute;. Tuy vậy, thực hiện lập c&a
acute;c loại sổ s&a
acute;ch, hồ sơ bằng thủ công gây bất tiện, và khi cần tr&i
acute;ch lục thì tốn k&e
acute;m thời gian để tìm tài liệu lưu trữ. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đề nghị Quảng Nam c&o
acute; kế hoạch đầu tư nâng cấp phần mềm hạ tầng, kết nối cơ sở dữ liệu cảng để dễ quản l&y
acute;, gi&a
acute;m s&a
acute;t và gọn nhẹ thủ tục cho ngư dân mỗi khi ra vào cảng.
Theo Việt Nguyễn (B&a
acute;o Quảng Nam)
Nguồn bài viết : Bảng đặc biệt năm 2024